Ngày nay các blockchain hàng đầu đang trải qua sự thay đổi lớn từ cơ chế Proof of Work (PoW) sang Proof of Stake (PoS). Mô hình PoW ban đầu do Satoshi Nakamoto tiên phong đã không còn được ưa chuộng khi có những tác động ngoại lai tiêu cực được tạo ra bởi mô hình bảo mật của nó và xu hướng của nó đối với các mining pool tập trung. Các thiết kế PoS đang chứng kiến sự phát triển vượt bậc nhờ những hứa hẹn về hiệu quả năng lượng và khả năng phi tập trung cao hơn. Nếu Ethereum 2.0 (Eth2) hợp nhất với PoS được hoàn tất ngày hôm nay, các PoS based chain chiếm 44% thị phần vốn hóa Layer 1. Nếu chúng ta bỏ qua Bitcoin trong tính toán, PoS chain có thể lên tới 91% thị phần. Sự thay đổi này khỏi các mạng thống trị PoW đã tạo ra các hiệu ứng bậc 2 dưới dạng các mô hình kinh doanh mới kiếm được phần thưởng.

Kể từ sự khởi đầu của Bitcoin năm 2008, PoW chain cho phép các công ty xây dựng mô hình kinh doanh tập trung tối đa hóa phần thưởng khai thác. Những công ty khai thác thời đầu hiểu rằng họ có thể có lợi nhuận từ quy mô kinh tế và bắt đầu thiết lập những "trang trại máy chủ" ở các địa điểm có chi phí năng lượng rẻ nhằm tối đa hóa xác suất kiếm được phần thưởng khai thác. Chỉ trong 13 năm, crypto mining đã phát triển thành một ngành công nghiệp $31 tỷ. PoS chain mở ra cơ hội kinh doanh tương tự cho các cá nhân và công ty đang tìm cách vốn hóa phần thưởng PoS. JP Morgan ước tính việc staking đã tạo ra $9 tỷ doanh thu hàng năm và phát triển thành nền công nghiệp $40 tỷ năm 2025. Với dự báo sinh lợi, cần phải hiểu rằng các trạng thái của staking và cách chúng tác động lẫn nhau với sự phát triển của nền công nghiệp staking-as-a-service (STaaS)[1].
Staking-as-a-service sẽ được viết tắt thành STaaS để tránh nhầm với SaaS đã có trong ngành công nghệ. ↩︎
1. A Background on Proof of Stake
Để một permissionless blockchain hoạt động, chỉ một đối tượng có thể cập nhật sổ cái được chia sẻ của network vào bất kỳ thời gian nào. Cơ chế đồng thuận là một tập hợp các quy tắc mà nhà cung cấp bảo mật trong network blockchain sử dụng để xác định bản cập nhật nào được chấp nhận. Thực thể chịu trách nhiệm nhập một loạt các giao dịch (block) vào bất kỳ thời điểm nào được gọi là block producer. Đổi lại việc tạo ra một block mới và duy trì tính bảo mật của network, block producer sẽ kiếm được phần thưởng khối từ network.
Như đã đề cập ở trên, PoW và PoS là hai cơ chế đồng thuận được sử dụng rộng rãi nhất, cung cấp năng lượng cho các blockchain ngày nay. Trong hệ thống PoW, miner tiêu tốn tài nguyên vật lý (thời gian và năng lượng) nhằm cạnh tranh để trở thành block producer tiếp theo. Việc đốt cháy tài nguyên bên ngoài đem lại sự bảo mật cho network. Nếu kẻ xấu muốn dừng hoặc thay đổi trạng thái network, chúng cần kiểm soát hơn 50% sức mạnh tính toán của network.
Trong hệ thống PoS, sự cạnh tranh về các nguồn lực vật lý, ngoại sinh (power), được thay thế bằng sự cạnh tranh để thu hút crypto gốc. Tài nguyên nội sinh được gọi là stake. Sự khác biệt này cho phép PoS network hoạt động mà không tiêu tốn điện năng lớn và cho phép tham gia rộng rãi hơn vào quá trình đồng thuận so với PoW. Những người tham gia muốn trở thành người xác thực của network cần phải tham gia stake, hoặc lock up một phần crypto gốc của mạng như một cam kết đóng góp vào quá trình đồng thuận. Tổng giá trị stake của network là thứ cung cấp tính bảo mật, điều khiến các hình thức tấn công 51% tốn kém hơn cả PoW.
Ngoài chức năng chính là hàng rào bảo vệ, số lượng stake của validator[1] tỷ lệ thuận với xác suất được chọn để nhập các giao dịch mới vào sổ cái, do đó ảnh hưởng đến số lượng reward mà validator kiếm được. Stake của validator cũng đóng vai trò là tài sản thế chấp ngăn các hành vi bất lợi. Nếu hành động có hại đối với mạng, nó sẽ bị trừng phạt bằng việc mất một phần hoặc mất quyền tham gia vào quá trình đồng thuận trong một khoảng thời gian. Validator stake nhiều tài sản thế chấp hơn để có tỷ lệ phần thưởng khối lớn hơn. Số lượng tài sản thế chấp được stake càng lớn, càng nhiều khả năng validator sẽ thực hiện các quy tắc của network, đảm bảo tính an ninh của chuỗi.
Validator: Trình xác thực – Là người hoặc tổ chức (Node) được Blockchain chọn ngẫu nhiên theo thuật toán POS, được phép kiểm định và đóng block mới. ↩︎
2. Sự nổi lên của STaaS
2.1 Khuyến khích Stake
Với hiểu biết kỹ thuật cơ bản về cách hoạt động của PoS, chúng ta có thể khám phá các cơ hội kinh tế mà nó tạo ra. PoS network khuyến khích staker đóng góp vào bảo mật của nó bằng cách thưởng cho validator với những phần thưởng khối bao gồm lạm phát mạng và phí giao dịch. Phần thưởng lạm phát có thể được hiểu là động lực gốc để khuyến khích người dùng đem tài sản của họ vào hoạt động. Nếu 100% network stake, sẽ không có sự thay đổi tương đối nào về quyền sở hữu network vì tất cả phần thưởng lạm phát sẽ được phân phối cho tất cả những người nắm giữ hiện tại. Điều này rất khó xảy ra vì nó có nghĩa là không có ai thực sự đang chạy các ứng dụng trên network hoặc các giao dịch. Do đó, mỗi mạng PoS có tỷ lệ stake khác nhau phụ thuộc vào hoạt động và các ưu đãi đang diễn ra trên mỗi network tương ứng.

Tỷ lệ stake luôn thay đổi dẫn đến tỷ lệ phần thưởng cho staker mạng biến động. Càng nhiều stake tham gia vào mạng, tỷ lệ phần thưởng sẽ giảm vì phần thưởng stake phải được phân phối cho một nhóm lớn hơn và ngược lại. Lợi nhuận staking này được gọi là tỷ lệ stake trên danh nghĩa, bao gồm phí giao dịch và lạm phát. Tỷ lệ phần thưởng danh nghĩa trừ đi phần thưởng do lạm phát mạng được gọi là tỷ lệ thực. Trong khi hiệu suất danh nghĩa cho nhiều PoS Chain có thể đạt đến hai con số, tỷ lệ thực thường kết thúc bằng các chữ số duy nhất ở mức hiện tại. Ngoại lệ chính cho xu hướng này là Binance Smart Chain (BSC), nơi phần thưởng khối hoàn toàn từ phí giao dịch.

2.2 Những trở ngại tạo nên Cơ hội
Nếu việc staking là kênh doanh thu chính cho mọi người tham gia trên PoS network, vậy tại sao mọi người không trở thành validator? Có một số yếu tố đang diễn ra ở đây. Đầu tiên, thường có một yêu cầu vốn tối thiểu để trở thành validator, điều này khiến phần lớn người dùng nhỏ bị loại bỏ.

Ngay cả khi những chain như Solana không yêu cầu số lượng stake tối thiểu, vẫn yêu cầu vốn dưới các hình thức khác như high-end computer, phí vote (hiện khoảng 2SOL một ngày ~$500), và đủ vốn để validator được bầu. Nếu người tham gia có đủ vốn để đáp ứng mức stake tối thiểu, họ được giao nhiệm vụ đảm bảo validator của họ luôn trực tuyến và hoạt động chính xác. Hầu hết các PoS network sẽ phạt validator ngoại tuyến hoặc hoạt động không chính xác bằng cách sử dụng các hình thức cắt bỏ. Cuối cùng, staking đi kèm với chi phí cơ hội – tài sản bị khóa trong một khoảng thời gian và không thể được sử dụng cho các mục đích khác nhau vay và cho vay trong DeFi. Sự cố này áp dụng cho hầu hết các mạng PoS sử dụng cơ chế stake cam kết nhưng ngoại trừ các mạng như Cardano hỗ trợ native liquid staking. Nhìn chung, những vấn đề này là điều mà STaaS hướng tới giúp người dùng của nó.
Nền công nghiệp STaaS ban đầu được tạo ra để cung cấp lợi ích kinh tế của việc stake cho công chúng đồng thời giải quyết những thách thức của việc bảo trì trình xác thực liên tục cho người dùng không chuyên về kỹ thuật. Cùng với sự trưởng thành của nền công nghiệp, chúng tôi bắt đầu thấy những sự bổ sung của liquid staking[1] nhằm cải thiện bù đắp chi phí cơ hội của việc khóa tài sản stake. STaaS là mô hình kinh doanh tương đối đơn giản – người dùng chuyển hoặc ủy thác tài sản của họ cho nhà cung cấp STaaS quản lý. Điều này cho phép ngay cả những người dùng nhỏ nhất cũng có thể tận hưởng những lợi ích của việc stake. Bằng cách sử dụng nhà cung cấp STaaS, người dùng có thể dễ dàng stake hầu hết các loại tài sản PoS nào bằng một vài thao tác.
Liquid Staking được sử dụng để mô tả các giao thức (protocol) cho phép tạo ra các tài sản tổng hợp (synthetic assets) dưới dạng fungible token của các tài sản được stake trong một mạng lưới phi tập trung. ↩︎

Đổi lại việc duy trì các dịch vụ trình xác thực cần thiết cho khách hàng của mình, nhà cung cấp STaaS sẽ tính phí cho khách hàng của mình. Nó có thể là phí cố định hàng tháng nhưng phổ biến hơn là tỷ lệ phần trăm phần thưởng được tạo ra bởi stake của khách hàng. Hoa hồng dao động 5-20% của phần thưởng staking. Qua thời gian, chúng ta có thể mong đợi tỷ lệ phần trăm phí sẽ giảm xuống, do có nhiều cạnh tranh hơn từ số lượng những nhà cung cấp stake tham gia vào hệ sinh thái ngày càng tăng. Ngoài ra, số lượng phí danh nghĩa được tạo ra cho mỗi khách hàng dự kiến sẽ giảm khi các giao thức phát triển và thu hẹp lịch phần thưởng.
3. Phân loại STaaS
Tương tự như các dịch vụ ví và exchange hiện nay, chúng ta có thể phân loại các doanh nghiệp STaaS thành hai nhóm custodial hoặc non-custodial. Non-custodial là loại ví phi tập trung, nơi khách hàng sở hữu các mã khóa riêng (private key) của ví. Người dùng nhận được một tệp có mã khóa cá nhân (passphrase) và cần viết ra một cụm từ dễ nhớ mà họ sẽ có thể khôi phục tiền của mình. Ngược lại, ví Custodial là một loại ví do sàn giao dịch lưu giữ private key của khách hàng và chỉ đưa cho bạn public key (địa chỉ ví – cái mà bạn hay dùng để chuyển coins qua lại cho nhau). Tất cả hai loại STaaS này đều cung cấp tính năng liquid staking.
3.1 Custodial STaaS
Các nhà cung cấp Custodial STaaS có đặc điểm là kiểm soát và duy trì tài sản của khách hàng trong toàn bộ quá trình staking. Ví dụ như các sàn giao dịch tập trung Coinbase hoặc Kraken.

Custodial STaaS thường nhắm mục tiêu đến những người dùng bán lẻ muốn có một cách đơn giản để kiếm lợi từ số tiền mà họ nắm giữ mà không phải lo lắng về các quy trình phụ trợ. Bất kỳ phần thưởng nào được tạo ra từ stake của khách sẽ được phân phối trước cho staking provider trước khi tới tay khách hàng. Tương tự như cách ngân hàng hoạt động; ngân hàng duy trì quyền lực đối với khách hàng của mình bằng cách quy định các khoản phí tính trên lãi suất của người gửi tiền trong khi vẫn duy trì quyền lưu ký các khoản tiền gửi đó. Tuy nhiên, rủi ro tương tự đối với các ví và sàn giao dịch custodial áp dụng cho các nhà cung cấp custodial STaaS – không phải key của bạn, không phải crypto của bạn.
Thông thường các nhà cung cấp Custodial STaaS hợp tác với nhà cung cấp Node-as-a-Service (NaaS) phụ trợ để thuê ngoài cơ sở hạ tầng staking của họ. Trong trường hợp này, nhà cung cấp cơ sở hạ tầng duy trì phần cứng và hoạt động của node xác thực hàng ngày, trong khi nhà cung cấp STaaS tập trung giám sát (quản lý key và lưu trữ lạnh). Các nhà cung cấp white label phổ biến gồm Blockdaemon và Staked. NaaS provider cũng được sử dụng bởi các doanh nghiệp lớn hoặc các VC muốn có trình xác thực của riêng họ nhưng thiếu chuyên môn để quản lý hoặc lưu trữ. Họ có thể trả thêm phí cho nhóm chuyên gia, tập trung vào việc bảo đảm thời gian hoạt động và tối đa bảo mật. Đầu năm 2021, việc Coinbase mua Bison Trails với giá $80 triệu đã đánh dấu thương vụ mua lại lớn đầu tiên của một nhà cung cấp cơ sở hạ tầng NaaS. Với sự hợp lực giữa hai loại hình kinh doanh này, đây có thể sẽ không phải là thỏa thuận duy nhất mà chúng ta thấy nó xảy ra.
3.2 Non-Custodial STaaS
STaaS không thể là một dịch vụ Web 3.0 thực thụ nếu thiếu khả năng tham gia trong khi duy trì quyền quản lý tài sản của mọi người. Quá trình chuyển stake sang một nhà cung cấp non-custodial STaaS được gọi là ủy quyền. Hầu hết các PoS network hỗ trợ ủy quyền riêng, có nghĩa là quá trình ủy quyền được xây dựng trong chính mạng. Bất kỳ ai chạy một validator có thể chấp nhận ủy quyền để tăng tỷ lệ tài sản stake của họ, do đó kiếm được nhiều phần thưởng staking hơn. Những validator này tính phí hoa hồng tương tự như các nhà cung cấp custodial STaaS. Tuy nhiên, phương thức phân phối phần thưởng khác. Kể từ khi network công nhận và hỗ trợ các uỷ quyền, nó có thể phân phối phần thưởng của người ủy quyền trực tiếp cho họ thay vì phải chờ validator xác nhận chuyển. Điều này giúp giảm thiểu một vài rủi ro liên quan đến mô hình kinh doanh custodial STaaS.
Mặc dù hỗ trợ ủy quyền ở cấp độ mạng nghe có vẻ như không sáng suốt, nhưng luôn có nguy cơ stake có thể trở nên quá tập trung với một vài validator lớn trong mạng. Trong nỗ lực thúc đẩy phi tập trung, Ethereum đã quyết định loại bỏ tính năng này khỏi Eth2 PoS và để thị trường xây dựng các tính năng ủy quyền trên mạng.

Điều này khiến Eth2 STaaS trở thành một danh mục con thú vị của chính nó. Đó cũng là lý do khiến một số staking provider lớn nhất, cả về giá trị stake và về số lượng chain được hỗ trợ, không hỗ trợ Eth2 staking. Ví dụ, Everstake là một STaaS lớn nhất xét theo giá trị $ stake, offer hỗ trợ 27 PoS network khác nhau, nhưng không hỗ trợ Eth2. Điều này có thể do không có tính năng stake nào được tích hợp trong mạng, khiến bạn không thể chỉ chạy validator với nội dung của nó và chấp nhận ủy quyền mà không cần thêm bước nào.

Tóm lại, chúng ta có thể thấy non-custodial STaaS rõ ràng dẫn đầu trên thị trường hiện nay. Điều này không có gì là bất ngờ với bản chất phi tập trung của những network này. Một yếu tố đóng góp cần lưu ý là hầu hết các nhà cung cấp cơ sở hạ tầng NaaS đề cập bên trên đều chạy trình xác thực công khai mà bất kỳ ai cũng có thể ủy quyền. Vì họ chuyên cung cấp cơ sở hạ tầng cho các tổ chức lớn, nên bổ sung cho những người dùng nhỏ hơn là điều đơn giản.
3.3 Giải pháp liquid staking
Từ khi việc staking là một cam kết đối với tính bảo mật của network, các tài sản cần phải được khóa lại để ngăn chặn tình huống "bank run" khi tất cả stake nhanh chóng bị rút và bảo mật của network sụp đổ. Chu kỳ lockup là riêng biệt cho mỗi network. Unstaking Solana chỉ mất 2 ngày, trong khi stake trong Eth2 bị khóa vô thời hạn cho đến khi nó hoàn tất quá trình chuyển sang PoS. Liquid staking cung cấp cho những người gửi tiền một loại tài sản đại diện cho vị thế stake của họ, tích lũy staking reward, và có thể giao dịch và sử dụng làm tài sản thế chấp cho các hoạt động DeFi. Trong khi liquid staking là một tính năng mà cả nhà cung cấp custodial STaaS và non-custodial STaaS đều có thể đưa đến cho khách hàng, nhưng nó lại được sử dụng phổ biến nhất trong các staking pool phi tập trung. Các giao thức này không tự chạy trình xác thực. Thay vào đó, họ tích lũy tiền gửi staking và phân phối cho những người xác thực đã hoạt động trong một mạng nhất định. Ví lý do này, phần thưởng và hình phạt thường được chia sẻ bởi tất cả những người gửi tiền trong một staking pool.

Các giải pháp liquid staking vẫn đang trong giai đoạn phát triển ban đầu. Động thái của Lido thay đổi sớm là lợi thế và hỗ trợ nhiều mạng (Eth2, Terra, Solana) đã cho phép nó vươn lên dẫn trước. Phái sinh stETH của nó là phái sinh liquid staking trên DeFi và có thể được sử dụng trong các giao thức như Maker, Yearn và Curve. Thời gian càng nhiều, các tài sản phái sinh được stake của các giao thức khác sẽ tự thiết lập như các tùy chọn tài sản thế chấp càng đáng tin cậy. Ngoài ra, chúng ta có thể mong đợi nhiều chain có tính năng phái sinh liquid staking hơn. Liquid staking là một công cụ được thiết lập trên các chain như Ethereum, Solana và Terra, nhưng các giao thức trên các chain khác đang bắt đầu ra mắt các phái sinh liquid staking của họ. Gần đây nhất, Acala đã phát hành phái sinh LKSM cho phép liquid staking trên Kusama.
4. Đánh giá quan trọng về STaaS
4.1 Rủi ro
Trong khi STaaS dân chủ hóa quy trình staking cho crypto user, nhưng nó vẫn đi kèm rủi ro. Như chúng ta đã thảo luận trước đây, bản thân việc staking không có rủi ro. Bất kỳ validator nào cũng phải chịu hình phạt đối với những sự kiện nghiêm trọng như downtime hoặc double signing khiến network không đạt được sự đồng thuận. Downtime đề cập đến bất kỳ khoảng thời gian nào trình xác thực offline và bỏ lỡ những công việc của nó trong quy trình đồng thuận. Double signing xảy ra khi nhà cung cấp STaaS giữ cho trình xác thực dự phòng chạy (tránh downtime) và cả hai trình xác thực của nó sử dụng một khóa riêng để vote cho một block. Cắt giảm - Slashing đề cập đến việc mạng loại bỏ validator của tất cả hoặc một phần tài sản stake của nó. Một vài giao thức, đặc biệt là những giao thức trong giai đoạn đầu chu kỳ phát triển của chúng, đã nới lỏng chính sách cắt giảm để tối đa hóa tốc độ tăng trưởng network. Đây nên được xem là các biện pháp tạm thời sẽ được thay đổi trong tương lai khi có nhiều trình xác thực hơn được đưa vào network.
Mặc dù các nhà cung cấp STaaS giúp giảm thiểu rủi ro, nhưng điều quan trọng cần lưu ý là rủi ro vẫn sẽ luôn tồn tại ở một số dạng khác và tùy thuộc vào nhà cung cấp STaaS để quyết định xem nó có bù đắp được những tổn thất có thể xảy ra không. Các nhà cung cấp ngày nay có nhiều chính sách khác nhau. Khi Staked.us phát hiện ra bug khiến validator của nó ký sai các giao dịch, nó đã hoàn lại $30,000 cho khoản lỗ của người ủy quyền. Blockdaemon đưa ra chính sách bảo hiểm 100% các trường hợp có thể xảy ra. Coinbase tuyên bố trong các điều khoản rằng có thể có hoặc không bồi thường cho người ủy quyền, phụ thuộc vào lý do của hình thức phạt cắt giảm. Khi ngành STaaS phát triển, chúng ta có thể mong đợi bảo hiểm cắt giảm sẽ được yêu cầu bởi những người tham gia không thích rủi ro để giảm thiểu bất kỳ tổn thất nào mà cuối cùng không được các nhà cung cấp STaaS bảo vệ.
Việc tạo ra các phái sinh liquid staking dẫn đến nhiều rủi ro. Trước hết, vì các công cụ phái sinh này là tài sản tổng hợp, nên chúng cần duy trì sự cố định đối với tài sản stake cơ bản. Đây không phải là một nhiệm vụ dễ dàng. Mặc dù là phái sinh liquid staking đáng tin cậy nhất, stETH của Lido đôi khi phải cố gắng duy trì tỷ giá 1:1 với ETH. Điều này có thể là do stETH không thể đổi 1:1 thành ETH thông qua Lido cho đến khi Ethereum hoàn tất quá trình chuyển sang PoS. Cho đến lúc đó, stETH phải dựa vào các sàn giao dịch phi tập trung để tìm ra giá trị thực tế.

Điều này làm tăng rủi ro sử dụng các loại tài sản DeFi khi sự thay đổi giá đột ngột có thể khởi động hiệu ứng domino thanh lý. Rủi ro thứ hai của việc giao dịch với các sản phẩm phái sinh stake là vấn đề thanh khoản. Nếu staking phái sinh không thể trao đổi lấy bất kỳ tài sản nào khác trên thị trường, thì nó không thực sự phụ vụ bất kỳ mục đích nào ngoài việc trở thành biên lai ký gửi. Điều này cũng liên quan trực tiếp đến rủi ro neo – phái sinh staking càng lệch khỏi chốt, thanh khoản càng kém hơn.
Rủi ro cuối cùng liên quan đến ngành STaaS chỉ áp dụng cho các pool staking phi tập trung được thiết kế để tổng hợp và phân phối stake trên nhiều trình xác thực khác nhau. Các pool này có thể làm giảm bất kỳ rủi ro nào liên quan đến việc chọn một trình xác thực cụ thể, nhưng chúng thêm rủi ro hợp đồng thông minh vì giao thức phải có lộ trình stake trên một mạng lưới các validator của nó. Các khai thác DeFi gần đây chứng minh tin hacker sẽ không dừng ở việc tìm kiếm cách lợi dụng giao thức. Chỉ có thời gian mới biết liệu những hợp đồng này có tồn tại được trước những nỗ lực của kẻ xấu không.
4.2 Phi tập trung
Không một bài kiểm tra crypto network nào được hoàn thành nếu thiếu yếu tố Phi tập trung. Một lời chỉ trích phổ biến với ngành PoW mining là nó khuyến khích việc tập trung hóa các nguồn tài nguyên và các nhà cung cấp bảo mật. Bất kỳ sự tập trung nào trong hệ thống bảo mật của network đều khiến nó dễ bị xâm phạm. Mặc dù mạng PoS không được hưởng lợi từ mô hình tương tự như PoW, ngành STaaS là một biến quan trọng sẽ ảnh hưởng đến sự phi tập trung của PoS network.
Để định lượng sự phi tập trung của một mạng lưới blockchain, Balaji Srinivasan đưa ra khái niệm về hệ số Nakamoto để đo lường số lượng thực tế một tác nhân xấu sẽ cần phải xâm phạm ít nhất một hệ thống con thiết yếu; hệ số Nakamoto càng cao tính phi tập trung càng lớn. Với các thuộc tính đồng thuận của PoS network, ngưỡng tối thiểu để xâm chiếm mạng là 1/3 stake của network.

Áp dụng hệ số Nakamoto cho các PoS network hàng đầu cho ta một bức tranh đa dạng. Một cuộc tấn công vào một trong những network lớn hơn như Cardano, Solana à Avalanche sẽ khó khăn hơn. Tiếp quản các network khác như Tron, Polygon, Elrond hoặc Fantom sẽ đơn giản hơn nhiều – thỏa hiệp với hai hoặc ba nhà cung cấp staking lớn nhất và bạn sẽ kiểm soát network. Một phần của sự phân phối tập trung này liên quan đến sự kém phát triển của các network này; khi chúng trưởng thành, chúng ta có thể mong đợi hệ số Nakamoto sẽ tăng chậm lại.
Điều cần thiết cho ngành công nghiệp crypto là kiểm tra những nhà cung cấp STaaS lớn để ngăn chặn sự tập trung hóa. Ủy quyền cho các validator nhỏ hơn và khuyến khích các nhà cung cấp STaaS tối đa hóa số lượng validator dưới sự quản lý của họ là hai cách cộng đồng có thể giúp các mạng PoS duy trì tính phi tập trung nhất có thể.
5. Dự báo cho ngành STaaS
Thị trường crypto đã làm rõ một điều trong đợt bull run hiện tại, đó là PoS đang thay thế PoW để trở thành cơ chế đồng thuận thống trị cho các mạng blockchain công cộng. Bitcoin sẽ tiếp tục giữ PoW, nhưng bất kỳ smart contract network nào có mục đích chung sẽ yêu cầu một công cụ đồng thuận thay thế để áp dụng hàng loạt. Nhà cung cấp STaaS ban đầu nhận ra cơ hội này đã tự định vị bản thân để tiếp tục thành công khi ngày càng nhiều nhà đầu tư tìm cách kiếm lợi nhuận đáng tin cậy từ tài sản PoS của họ.
Tương lai sẽ có gì?
Có thể lập luận rằng staking là điều gần nhất mà chúng ta có thể đạt được về "tỷ lệ phi rủi ro" của mạng blockchain. Trong các hệ thống kinh tế truyền thống, tỷ lệ phi rủi ro được biểu thị bằng tỷ suất sinh lợi của trái phiếu chính phủ. Chính phủ là nền tảng của hệ thống kinh tế một quốc gia. Tương tự, bảo mật của blockchain là nền tảng của hệ thống kinh tế của nó. Chúng ta có thể mong đợi sự tăng trưởng liên tục của ngành STaaS.
Trong ngành STaaS, các giải pháp liquid staking sẽ được hưởng lợi nhiều nhất từ sự tăng trưởng liên tục này. Chúng tôi đã bắt đầu thấy những nhà cung cấp dịch vụ custodial lớn nhất. Ví dụ, Binance cung cấp BETH để bù đắp chi phí cơ hội liên quan đến việc khóa Eth2 vô thời hạn. Trend này sẽ tiếp tục khi các liquid staking pool phát triển hiệu ứng network của họ trên các chain và nhà cung cấp staking khác nhau.
Chúng ta có thể mong đợi tỷ lệ hoa hồng STaaS giống với phí ngân hàng tiêu dùng trong hai thập kỷ qua. Sự gia tăng cạnh tranh từ các FinTech buộc các ngân hàng phải đưa ra mức phí ngày càng thấp để giữ chân khách hàng. Số lượng những giải pháp STaaS ngày càng tăng cũng sẽ gây áp lực giảm đối với hoa hồng được tính trên staking reward của khách hàng. Một biến số có thể giữ cho các tỷ lệ này cao hơn trong ngắn hạn là chi phí chuyển đổi cao có thể do sự non nớt của các giải pháp liquid staking. Nếu một đối thủ cạnh tranh tham gia vào thị trường offer mức hoa hồng thấp hơn, khách hàng STaaS không sử dụng giải pháp liquid staking sẽ cần chờ hết thời gian khóa để chuyển đổi nhà cung cấp mới. Tại thời điểm họ có thể chuyển đổi, một nhà cung cấp mới có thể offer mức phí thấp hơn nữa, tạo ra một cuộc đua giảm giá về phí.
Cuối cùng, với sự đơn giản của mô hình kinh doanh của ngành, các nhà cung cấp STaaS có thể sẽ cạnh tranh chủ yếu bằng thương hiệu và danh tiếng như chúng ta thấy các ngân hàng tiêu dùng ngày nay. Sự khác biệt thực tế trong các dịch vụ cho Wells Fargo và Chase Bank cung cấp là rất ít. Cách các ngân hàng này giành được khách hàng là thông qua các kênh tiếp thị và cung cấp trải nghiệm người dùng được đơn giản hóa.

Tương tự như vậy, các nhà cung cấp STaaS tự hào về độ an toàn cao nhất, quản lý rủi ro và các liquid staking phái sinh đáng tin cậy có thể sẽ thu hút được nhiều khách hàng nhất trong dài hạn. Luận điểm này phù hợp với sự phát triển cross-chain của Lido.
Quan trọng là chúng ta vẫn đang ở thời kỳ sơ khai. Một cơ chế đồng thuận đột phá mới có thể tạo ra vào ngày mai và khiến PoS không còn phù hợp. Tuy nhiên, điều này rất khó xảy ra ngay. Trong khi đó, khi PoS tiếp tục được áp dụng hàng loạt, triển vọng cho ngành STaaS vẫn ở chế độ tăng.
Đừng quên đăng ký Otis Report - Nơi cung cấp và cập nhật nhanh nhất mọi thông tin vĩ mô và phương pháp đầu tư tăng trưởng với giá trị vượt thời gian.
Hãy đăng ký và tham gia các nhóm, channel của Otis Report dưới đây để được thảo luận cùng các chuyên gia và nhiều Otiser khác:
- Theo dõi Otis Podcast - Những góc nhìn thú vị về thị trường
- Đăng ký kênh YouTube Otis Report - Các video chia sẻ kinh nghiệm đầu tư
- Otis Telegram - Chat cùng các chuyên gia và Otiser
- Group Otis Report - Cập nhật & thảo luận thông tin